Tổn thương phổi là gì? Các công bố khoa học về Tổn thương phổi

Tổn thương phổi là một tình trạng xảy ra khi có bất kỳ sự tổn thương nào đối với phổi, gây ra sự suy giảm hoặc mất chức năng của các phế quản, mô phổi hay mạch ...

Tổn thương phổi là một tình trạng xảy ra khi có bất kỳ sự tổn thương nào đối với phổi, gây ra sự suy giảm hoặc mất chức năng của các phế quản, mô phổi hay mạch máu phổi. Có nhiều nguyên nhân gây tổn thương phổi như viêm phổi, căn bệnh phổi mạn tính (ví dụ như bệnh tắc nghẽn mạch phổi mãn tính - COPD), bị thương do tai nạn hay tổn thương do hút thuốc lá hoặc bị nhiễm độc từ môi trường. Tổn thương phổi có thể gây ra các triệu chứng như khó thở, ho, đau ngực và khó thở khi vận động. Điều trị tổn thương phổi phụ thuộc vào nguyên nhân và mức độ tổn thương, bao gồm việc ngừng hút thuốc lá, sử dụng thuốc chống viêm, thuốc kháng sinh hoặc phẫu thuật.
Tổn thương phổi có thể mô tả theo các dạng tổn thương khác nhau. Dưới đây là một số dạng tổn thương phổi phổ biến:

1. Viêm phổi: Đây là tình trạng chủ yếu được gây ra bởi các loại vi khuẩn, virus hoặc nấm mà xâm nhập vào phổi, gây viêm nhiễm và tổn thương mô phổi. Tổn thương phổi do viêm phổi thường gây ra triệu chứng như ho, đau ngực, khó thở và sốt.

2. Bệnh tắc nghẽn mạch phổi mãn tính (COPD): Đây là một bệnh phổi mãn tính mà dẫn đến sự tổn thương và viêm nhiễm của các đường thở, gây ra khó thở và suy giảm chức năng phổi. Các nguyên nhân thông thường gây COPD bao gồm hút thuốc lá, tiếp xúc với các chất gây ô nhiễm không khí, khói hoặc bụi hóa học.

3. Tổn thương do tai nạn hoặc chấn thương: Tai nạn hoặc chấn thương trong khu vực ngực có thể gây tổn thương và gãy xương sườn, tổn thương phổi hoặc hệ thống mạch máu phổi. Tình trạng này có thể gây ra viêm phổi, chảy máu phổi hoặc suy hô hấp.

4. Tổn thương do hút thuốc lá: Hút thuốc lá tạo ra các chất gây kích thích, gây tổn thương trực tiếp đến mô phổi và các cơ quan hô hấp khác. Khi những chất gây kích thích này xâm nhập vào phổi, chúng gây ra viêm phổi, tăng nguy cơ mắc bệnh phổi mãn tính và gây ra các vấn đề hô hấp khác.

5. Tổn thương do môi trường: Những chất gây ô nhiễm trong môi trường như khí ô nhiễm, bụi, hóa chất và vi khuẩn có thể gây tổn thương phổi khi đưa vào môi trường hoặc khi hít vào. Các tổn thương phổi do môi trường vừa có thể là ngắn hạn (như viêm phổi) hoặc dài hạn (như bệnh phổi mạn tính).

Việc đánh giá và điều trị tổn thương phổi phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra và mức độ tổn thương. Người bệnh nên được khám và chẩn đoán bởi các chuyên gia y tế, bao gồm cả các bác sĩ phổi và bác sĩ tim mạch.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tổn thương phổi":

Nồng độ Hsp90 trong huyết tương của bệnh nhân xơ cứng bì hệ thống và mối liên hệ với tổn thương phổi và da: nghiên cứu cắt ngang và dọc Dịch bởi AI
Scientific Reports - Tập 11 Số 1
Tóm tắt

Nghiên cứu trước đây của chúng tôi đã chứng minh sự gia tăng biểu hiện của protein sốc nhiệt (Hsp) 90 trong da của bệnh nhân xơ cứng bì hệ thống (SSc). Mục tiêu của chúng tôi là đánh giá nồng độ Hsp90 trong huyết tương ở bệnh nhân SSc và xác định mối liên quan của nó với các đặc điểm liên quan đến SSc. Có 92 bệnh nhân SSc và 92 người đối chứng khỏe mạnh được sắp xếp theo độ tuổi và giới tính được tuyển chọn cho phân tích cắt ngang. Phân tích dọc bao gồm 30 bệnh nhân bị SSc kèm bệnh phổi kẽ (ILD) được điều trị thường xuyên với cyclophosphamide. Hsp90 gia tăng ở bệnh nhân SSc so với nhóm đối chứng khỏe mạnh. Hsp90 tương quan dương tính với protein C phản ứng và tương quan âm tính với các xét nghiệm chức năng phổi như dung tích sống gắng sức và khả năng khuếch tán cho cacbon monoxide (DLCO). Ở bệnh nhân xơ cứng bì hệ thống da lan rộng (dcSSc), Hsp90 tương quan dương tính với thang điểm da Rodnan được sửa đổi. Ở bệnh nhân SSc-ILD được điều trị bằng cyclophosphamide, không thấy sự khác biệt về Hsp90 giữa lúc bắt đầu và sau 1, 6, hoặc 12 tháng điều trị. Tuy nhiên, Hsp90 ban đầu có thể dự đoán sự thay đổi DLCO sau 12 tháng. Nghiên cứu này chỉ ra rằng nồng độ Hsp90 trong huyết tương gia tăng ở bệnh nhân SSc so với nhóm đối chứng khỏe mạnh cùng độ tuổi và giới tính. Hsp90 gia tăng ở bệnh nhân SSc có liên quan với hoạt động viêm gia tăng, chức năng phổi kém hơn và trong dcSSc, với mức độ tổn thương da. Hsp90 trong huyết tương ban đầu có thể dự đoán sự thay đổi DLCO sau 12 tháng ở bệnh nhân SSc-ILD điều trị bằng cyclophosphamide.

#Hsp90 #Xơ cứng bì hệ thống #Bệnh phổi kẽ #Cyclophosphamide #Chức năng phổi #Đánh giá cắt ngang #Đánh giá dọc #Biểu hiện viêm #Tổn thương da #Dự đoán DLCO
Tổn thương phổi cấp tính: Một cái nhìn lâm sàng và phân tử Dịch bởi AI
Archives of Pathology and Laboratory Medicine - Tập 140 Số 4 - Trang 345-350 - 2016

Tổn thương phổi cấp tính (ALI) và hội chứng suy hô hấp cấp (ARDS) là một quá trình liên tục của những thay đổi ở phổi xảy ra từ nhiều loại tổn thương phổi khác nhau, thường dẫn đến tình trạng bệnh tật đáng kể và thường là tử vong. Nghiên cứu về bệnh sinh phân tử của ALI/ARDS đang tiếp diễn, với mục tiêu phát triển các sinh marker phân tử tiên đoán và liệu pháp dựa trên phân tử. Bối cảnh.—

Mục tiêu là xem xét các đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học và bệnh lý của ALI/ARDS; và bệnh sinh phân tử của ALI/ARDS, với sự cân nhắc đến các sinh marker phân tử có thể tiên đoán/tiên lượng và các liệu pháp dựa trên phân tử có thể. Mục tiêu.—

Kiểm tra tài liệu y khoa bằng tiếng Anh liên quan đến ALI và ARDS. Nguồn dữ liệu.—

ARDS chủ yếu là một chẩn đoán lâm sàng-hình ảnh; tuy nhiên, sinh thiết phổi đóng vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán ở một số trường hợp. Nhiều tiến bộ đáng kể đã được thực hiện trong việc làm sáng tỏ bệnh sinh của ARDS và trong việc dự đoán phản ứng của bệnh nhân, tuy nhiên hiện tại chưa có sinh marker phân tử nào khả thi để dự đoán mức độ nghiêm trọng của ARDS, hoặc các liệu pháp ARDS dựa trên phân tử. Các cytokine tiền viêm TNF-α (yếu tố hoại tử khối u α), interleukin (IL)-1β, IL-6, IL-8 và IL-18 nằm trong số những sinh marker đầy hứa hẹn nhất cho việc dự đoán mức độ bệnh tật và tử vong. Kết luận.—

#Tổn thương phổi cấp tính #Hội chứng suy hô hấp cấp #Bệnh sinh phân tử #Sinh marker phân tử #Cytokine tiền viêm
Tương tác tế bào-tế bào và giảm eicosanoid gây co thắt phế quản thông qua oxit carbon hít vào và resolvin D1 Dịch bởi AI
American Journal of Physiology - Lung Cellular and Molecular Physiology - Tập 307 Số 10 - Trang L746-L757 - 2014

Bạch cầu đa nhân trung tính (PMN) đóng vai trò trung gian gây tổn thương cấp tính ở phổi do thiếu máu/tái tưới máu (I/R) vẫn tiếp tục là nguyên nhân chính gây tử vong trong y học chăm sóc đặc biệt. Trong nghiên cứu này, chúng tôi báo cáo rằng việc hít oxit carbon (CO) liều thấp và tiêm tĩnh mạch resolvin D1 (RvD1) ở chuột có thể làm giảm tổn thương phổi cấp tính do PMN gây ra từ I/R. Việc hít CO (125–250 ppm) và RvD1 (250–500 ng) đều làm giảm sự thâm nhập của PMN vào phổi và cải thiện bảo vệ phổi. Trong mẫu máu toàn phần của chuột, CO và RvD1 giảm mạnh tổng hợp PMN-tiểu cầu, từ đó giảm leukotrien (LTs) và thromboxan B2(TxB2) trong phổi chịu tác động I/R. Với mẫu máu toàn phần của người, CO (125–250 ppm) làm giảm tổng hợp PMN-tiểu cầu, sự biểu hiện của phân tử bám dính, cytokine LTs cũng như TxB2. RvD1 (1–100 nM) cũng giảm phụ thuộc liều tổng hợp PMN-tiểu cầu kích thích bởi yếu tố hoạt hóa tiểu cầu trong mẫu máu người. Trong nghiên cứu trên động vật không phải người (khỉ đầu chó) bị nhiễm Streptococcus pneumoniae ở phổi, CO hít vào làm giảm đáng kể LTs cysteinyl trong nước tiểu. Những kết quả này chứng minh việc bảo vệ phổi bằng CO hít liều thấp cũng như RvD1 giảm tổn thương mô cấp tính bởi PMN, tương tác PMN-tiểu cầu và sản xuất LTs cysteinyl và TxB2. Cùng nhau, chúng gợi ý một vai trò điều trị tiềm năng của CO hít liều thấp trong bảo vệ cơ quan, như đã chứng minh qua các mô hình tổn thương phổi khởi tạo I/R trên chuột, nhiễm trùng khỉ đầu chó và mẫu máu toàn phần của người.

#Bạch cầu đa nhân trung tính #Tổn thương phổi cấp tính #Thiếu máu/tái tưới máu #Oxit carbon #Resolvin D1 #Tương tác PMN-tiểu cầu #Leukotrien #Thromboxan #Bảo vệ phổi #Cysteinyl LTs
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH 18FDG-PET/CT CỦA CÁC TỔN THƯƠNG TRONG UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ TRƯỚC ĐIỀU TRỊ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - 2022
Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh 18FDG-PET/CT của các tổn thương trong ung thư phổi không tế bào nhỏ trước điều trị. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu, phân tích mô tả trên 43 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ được chụp PET/CT trước điều trị  Bệnh viện quân y 103 từ tháng 02/2017 – tháng 02/2022. Kết quả: 43 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ từ T2/2017 đến T2/2022. Kích thước trung bình khối u phổi là 40,98±21,53mm, có sự liên quan giữa chỉ số SUVmax và kích thước khối u nguyên phát. Giá trị SUVmax tăng theo giai đoạn T. Giá trị SUVmax trung bình của nhóm hạch >10mm là 10,59±6,12 cao hơn của nhóm hạch <10mm là 5,56±2,47. Sau chụp PET/CT n giai đoạn N0 chiếm 32,6%, giai đoạn N1 chiếm 23,3%, giai đoạn N2 chiếm 23,3%, giai đoạn N3 chiếm 20,9%. Giá trị SUVmax trung bình khối u ở nhóm bệnh nhân giai đoạn M1 là 15,96±4,29 cao hơn ở nhóm bệnh nhân giai đoạn M0 là 14,57±8,26.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #18FDG-PET/CT #SUVmax
Đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính ngực bệnh nhân COVID-19 kéo dài và hậu COVID-19 có tổn thương phổi điều trị tại Bệnh viện Phổi Trung ương (nhân 92 trường hợp), thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính ngực của các ca bệnh trong giai đoạn COVID-19 kéo dài và hậu COVID-19 có tổn thương phổi, tiền sử không có bệnh nền ở phổi, đến khám và điều trị tại Bệnh viện Phổi Trung ương. Đối tượng và phương pháp: 92 bệnh nhân có tiền sử nhiễm COVID-19 trên 4 tuần, có kết quả xét nghiệm kháng nguyên nhanh hoặc PCR đối với Sars-CoV-2 âm tính, có dấu hiệu viêm đường hô hấp, chụp phim X-quang ngực có bất thường phổi, có kết quả chụp phim cắt lớp vi tính ngực và được nhập viện điều trị. Nghiên cứu hồi cứu, mô tả, cắt ngang. Kết quả và kết luận: Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu 53,3 ± 17,8 năm, nam/nữ là 51/41, ho khan kéo dài: 76,1%, cảm giác khó thở, hụt hơi: 58,7%, đau ngực, cảm giác khó chịu ở ngực: 41,3%, sốt nhẹ: 28,3%, sốt cao: 8,7%. Thời gian từ khi nhiễm COVID-19 đến khi nhập viện trung bình: 68,5 ngày. Xét nghiệm công thức máu: Trung bình bạch cầu: 10,2G/L, trung bình đa nhân trung tính: 79%; CRP trung bình: 12,54mg/l. Hình ảnh cắt lớp vi tính ngực: Kính mờ: 85,9%, vỉa hè lát đá: 17,4%, đông đặc: 62%, xơ hoá khoảng kẽ (đường cong dưới màng phổi/mờ lưới vùng ngoại vi hai bên): 19,7%, giãn tĩnh mạch phổi: 16,3%, giãn phế quản: 53,3%, huyết khối động mạch phổi vùng trung tâm và cận trung tâm: 12,0%, tổ chức hoá (đông đặc/quầng sáng đảo ngược): 34,8%, hạch to rốn phổi, trung thất: 0%, tràn dịch màng phổi: 1,1%, không có trường hợp nào có tràn dịch màng tim, hạch lớn rốn phổi, trung thất và hình hang, tổn thương hai phổi: 83,7%. Cắt lớp vi tính ngực có vai trò quan trọng trong hỗ trợ chẩn đoán tổn thương phổi bệnh nhân giai đoạn COVID-19 kéo dài và hậu COVID-19.
#COVID-19 kéo dài #hậu COVID-19 #cắt lớp vi tính ngực hậu COVID-19
Nghiên cứu giá trị cắt lớp vi tính ngực trong chẩn đoán nốt đơn độc ở phổi có đường kính lớn hơn 8mm
Mục tiêu: Xác định giá trị cắt lớp vi tính đa dãy đầu thu ngực trong chẩn đoán bản chất nốt đơn độc ở phổi. Đối tượng và phương pháp: 165 bệnh nhân khám và điều trị tại Bệnh viện Phổi Trung ương từ 11/2016 đến 12/2019 có kết quả chẩn đoán nốt phổi đơn độc trên phim cắt lớp vi tính ngực và có kết quả giải phẫu bệnh (sau sinh thiết tổn thương xuyên thành ngực và/hoặc sau phẫu thuật). Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang. Kết quả: Nốt phổi đơn độc có tỷ lệ lành tính là 51,5% và ác tính là 48,5%. Tuổi mắc bệnh trung bình 53,5 ± 1,4. Nhóm tuổi hay gặp nhất là từ 49 - 69 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ ~ 1,8:1. Cắt lớp vi tính có độ nhạy 98,7%; độ đặc hiệu 75,3%; giá trị dự báo dương tính 79,0%, giá trị dự báo âm tính 98,5% và độ chính xác 86,7%. Với phương pháp chụp cắt lớp vi tính pha động mạch muộn, giá trị độ nhạy 90,8%, độ đặc hiệu 78,2%; giá trị dự báo dương tính 85,2%; giá trị dự báo âm tính 86,0% và độ chính xác 85,5%. Với phương pháp chụp cắt lớp vi tính động, các giá trị độ nhạy 92,3%; độ đặc hiệu 68,2%; giá trị dự báo dương tính 63,2%; giá trị dự báo âm tính 93,7% và độ chính xác 77,1%. Người bệnh được áp dụng phương pháp cắt lớp vi tính pha động mạch muộn có khả năng phát hiện ung thư cao gấp 1,95 lần so với người bệnh áp dụng phương pháp cắt lớp vi tính động (p>0,05). Kết luận: Nốt phổi đơn độc hay gặp trên lâm sàng với tỷ lệ ác tính cao (48,5%). Cắt lớp vi tính có giá trị cao trong chẩn đoán phân biệt một nốt phổi lành hay ác tính, đặc biệt cắt lớp vi tính pha động mạch muộn.
#Tổn thương phổi #nốt phổi đơn độc #ung thư phổi
NHẬN XÉT HÌNH ẢNH TỔN THƯƠNG TRÊN PHIM CẮT LỚP VI TÍNH LỒNG NGỰC CÁC TỔN THƯƠNG DẠNG U ĐƠN ĐỘC NGOẠI VI PHỔI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Nhận xét cơ cấu bệnh lý phổi có tổn thương dạng u đơn độc ngoại vi và giá trị của một số hình ảnh cắt lớp vi tính lồng ngực trong tiên lượng nguy cơ ung thư phổi. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu trên 116 bệnh nhân có tổn thương dạng u đơn độc ở ngoại vi phổi được Phẫu thuật nội soi chẩn đoán và điều trị, tại Khoa Ngoại lồng ngực - Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thời gian từ 11/2011 đến 7/2014. Kết quả: Tuổi trung bình là 57,1 ± 12,3, tỷ lệ Nam/nữ là 1,3/1. Phân bố bệnh nhân theo kết quả mô bệnh học gồm: UTP chiếm tỷ lệ 41,4 %, trong đó UTBM tuyến chiếm chủ yếu (97,9%); u lành tính chiếm 58,6%, trong đó: u lao và viêm phổi mạn tính tổ chức hóa chiếm chủ yếu (69,4% và 23,6%). Phân tích mối liên quan giữa một số đặc điểm trên phim CLVT lồng ngực với kết quả mô bệnh cho thấy: tổn thương ở thùy giữa phổi phải; bờ đa cung, có tua gai có tỷ lệ UTP cao hơn lành tính (p < 0,01), trong khi tổn thương có kích thước từ 2cm trở xuống, bờ rõ nhẵn có tỷ lệ lành tính cao hơn UTP (p < 0,005); tỷ lệ UTP tăng dần theo kích thước tổn thương. Kết luận: Tổn thương dạng u đơn độc, ngoại vi phổi thường có bản chất mô học là ung thư phổi típ biểu mô tuyến (tỷ lệ 40,5%) hoặc lao (43,1%). Vị trí, kích thước và đặc điểm bờ khối u trên phim chụp CLVT lồng ngực có giá trị tiên đoán nguy cơ UTP.
#Phẫu thuật nội soi lồng ngực #u phổi ngoại vi #ung thư phổi
22. ĐẶC ĐIỂM VI SINH VÀ HÌNH ẢNH TỔN THƯƠNG PHỔI CỦA BỆNH NHÂN NẤM PHỔI ASPERGILLUS XÂM LẤN TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CD3 - Bệnh viện Phổi Trung ương - Trang - 2024
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm xét nghiệm vi sinh và hình ảnh tổn thương phổi của bệnh nhân mắc nấm phổi Aspergillus xâm lấn điều trị tại Bệnh viện Phổi Trung ương. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu trên 47 bệnh nhân nấm phổi Aspergillus xâm lấn, điều trị tại Bệnh viện Phổi Trung ương thời gian từ 01/2019 - 12/2020. Kết quả: Tuổi trung bình là 54 ± 14. Bệnh nhân có yếu tố vật chủ của EORTC/MSG chiếm 63,8%, trong đó bệnh máu ác tính (34%) và dùng corticoid kéo dài (23,4%). Các tổn thương quan sát qua nội soi phế quản là: Giả mạc (35,5%), nốt hoại tử (21,9%), loét (20,6%), tổn thương u sùi, thâm nhiễm, viêm mủ cũng gặp với tỷ lệ 10-14%. Tổn thương phổi gặp nhiều nhất trên CT ngực là nốt (70,2%), đông đặc (51,1%) và hang (27,7%), các tổn thương xuất hiện ở nhiều thùy phổi cả 2 bên. Tỷ lệ tìm thấy nấm Aspergillus bằng các xét nghiệm vi sinh: Nuôi cấy đờm (50%), nuôi cấy dịch phế quản (45,5%); Galactomannan máu (66,7%), Galactomannan dịch phế quản (40%); Aspergillus-specific lateral-flow device (LFD Aspergillus) máu (71,4%), LFD Aspergillus dịch phế quản (66,7%). Kết luận: Nấm phổi Aspergillus xâm lấn được phát hiện ngày càng nhiều trên lâm sàng. Chẩn đoán và điều trị sớm giúp giảm nguy cơ tử vong. Kết hợp các đặc điểm về yếu tố vật chủ, xét nghiệm vi sinh, tổn thương phổi giúp bác sĩ lâm sàng có cơ sở xác lập chẩn đoán.  
#Nấm phổi Aspergillus #Aspergillus xâm lấn #vi sinh #tổn thương phổi.
MỐI LIÊN QUAN GIỮA TỔN THƯƠNG PHỔI VÀ MỘT SỐ TỰ KHÁNG THỂ TRONG BỆNH XƠ CỨNG BÌ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan giữa tổn thương phổi và một số tự kháng thể trong bệnh xơ cứng bì. Đối tượng nghiên cứu: 65 bệnh nhân được chẩn đoán XCB theo tiêu chuẩn ACR/EULAR 2013 tại Khoa Cơ xương khớp, Trung tâm Hô Hấp, bệnh viện Bạch Mai và Bệnh viện Da Liễu Trung ương. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang. Kết quả nghiên cứu và kết luận: 73,8% bệnh nhân tham gia nghiên cứu có tổn thương phổi, trong đó BPMK đơn thuần chiếm tỉ lệ cao nhất (35,4%), BPMK phối hợp với TAĐMP chiếm 26,2%, TAĐMP đơn thuần 6,2%, BPMK phối hợp với TDMP chiếm 3,1%. Bệnh phổi mô kẽ chủ yếu gặp trong XCB toàn thể, không có sự khác biệt về tỉ lệ TAĐMP và TDMP giữa các thể XCB. Tự kháng thể Scl-70 gặp nhiều trong XCB toàn thể, kháng thể kháng Centromere gặp nhiều trong XCB khu trú. Có mối liên quan giữa bệnh phổi kẽ với kháng thể kháng Scl-70, tăng áp động mạch phổi với kháng thể kháng Centromere.
#Xơ cứng bì #tổn thương phổi #tự kháng thể
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH VÀ MỨC ĐỘ TỔN THƯƠNG PHỔI TRÊN XQUANG NGỰC Ở BỆNH NHÂN COVID-19
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình ảnh và mức độ tổn thương phổi trên Xquang ngực ở bệnh nhân COVID-19. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 370 bệnh nhân được chẩn đoán dương tính bằng dịch tỵ hầu điều trị tại bệnh viện Trường Đại học Kỹ thuật Y tế Hải Dương. Kết quả: Tổng cộng 370 BN (157nam(42.4%) và 213 nữ (57.6%)): tuổi mắc bệnh trung bình 34,74;. Tổn thương thường gặp nhất là tổn thương kính mờ, đông đặc và đạt đỉnh khoảng ngày 5-9, tổn thương tràn dịch màng phổi, dày màng phổi và giãn phế quản ít gặp(<1%), vị trí hay gặp là vùng ngoại vi, tổn thương cả 2 phổi chiếm đa số. Điểm số nghiêm trọng trên Xquang ngực cao nhất là 12 và đỉnh thường phát hiện ở trong 10 ngày đầu của bệnh.
#COVID-19 #Thang điểm trầm trọng trên Xquang ngực #Viêm phổi
Tổng số: 46   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5